7 bài thơ Từ Thế (辞世) – (2283-2289)
Pháp Hoan | 法歡 tuyển dịch từ Thơ Từ Thế Nhật Bản, Viết Bởi Các Tăng Sĩ, Thi Nhân Trong Giờ Cận Tử (Japanese Death Poems, Written by Zen Monks and Haiku Poets on the Verge of Death)
HAKUKIN (白芹; Bạch Cần)
Qua đời vào ngày 21 tháng 10 năm 1817
Tuổi sáu mươi hai
Những nhành cỏ lau
đó đây vương vãi
nước và trời cao…
Pampas grass, all dry/crumbles apart/water and sky….
Mizu ya sora/hodokete shimau/karesusuki
Susuki đồng nghĩa với từ obana, cả hai đều chỉ cỏ lau trong tiếng Nhật.
*
HAKUNI (白尼; Bạch Ni)
Qua đời vào ngày 09 tháng 08 năm 1792
Tuổi tám mươi bốn
Theo tiếng niệm Di-Đà
ánh trăng dần biến mất
bên chỗ nằm của ta.
To a melody of prayer/disappears the moon/my place of rest
Shōmyō ni/tsuki mo kietaru/makura kana
Shōmyō (声明; Thanh Minh) là một trong những cách tụng niệm của tín đồ Phật giáo Nhật Bản, trong trường hợp này là câu Namu Amida Butsu (Nam Mô A-Di-Đà Phật; Quay Về Nương Tựa Đức Phật A-Di-Đà), thường được các Phật tử xưng niệm trong giờ hấp hối với khao khát được vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc.
*
HAKUSAI (白歳; Bạch Tuế)
Qua đời vào ngày 02 tháng 09 năm 1792
Tuổi bảy mươi bốn
Giã từ – cũng tốt thôi
xuân sang hoa không nở
thu về lá chẳng rơi.
Farewell – and though there be/no budding in the spring,/no autumn withering- all is well
Saraba saraba/ hana mo momiji mo/naki zo yoki
*
HAKUSEN (伯先; Bách Tiên)
Qua đời vào ngày 23 tháng 8 năm 1820
Tuổi sáu mươi lăm
Hoa triêu nhan ơi
sáu lăm năm trời –
ta rồi cũng chết.
Oh morning glory,/five and sixty years/I too pass away
Asagao yo/musoji-itsu-tose/mi wa owaru
*
HAKURIN (白隣; Bạch Lân)
Qua đời vào ngày 03 tháng 10 năm 1897
Tuổi sáu mươi tám
Nào ta hãy cùng đi
theo hồi chuông để đến
được bến bờ bên kia.
Well, then, let’s follow/the peal of bells to the/yonder shore
Iza yukan/higan no kane no/ato ote
Hakurin mất sau tiết Thu Phân. Vào ngày này, khắp nước Nhật tổ chức những buổi lễ tưởng niệm Đức Phật Thích Ca nhập Niết-bàn. Viếng chùa, thắp hương, dâng hoa lên mộ tổ tiên. Higan (彼岸) có nghĩa là “bỉ ngạn – bờ bên kia”, với ngụ ý vượt thoát khỏi thế giới vô minh để sang đến bờ chân lý.
*
HAKUSETSU (白雪; Bạch Tuyết)
Qua đời vào ngày 07 tháng 06 năm 1735
Tuổi bảy mươi lăm
Thân tâm nhẹ nhàng
ở trên tật bệnh
mùa hè cháy ran.
At peace,/above my sickness/summer smolders.
Anjin wa/yamai ga ue no/gokusho kana
*
HOKUSAI (北斎; Bắc Trai)
Qua đời vào ngày 12 tháng 04 năm 1849
Tuổi tám mươi
Nếu đã là hồn ma
vậy tôi sẽ rong ruổi
trên những đồng cỏ xa.
Now as a spirit/I shall roam/the summer fields
Hitodama de/yuku kisan ja/natsu no hara
Hokusai là một trong những hoạ sĩ vĩ đại nhất xứ Phù Tang. Những bức tranh đầy màu sắc mô tả cuộc sống phố thị Edo thuộc những tác phẩm đẹp nhất theo phong cách Ukiyoe (浮世絵; Phù Thế Hội), và bộ tranh Ba Mươi Sáu Cảnh Núi Phú Sĩ (富嶽三十六景: Fugaku Sanjūrokkei; Phú Nhạc Tam Thập Lục cảnh) đã mang lại danh tiếng to lớn (không khác gì ngọn núi) cho ông. Hitodama (人魂; nhân hồn), theo nhiều tín ngưỡng dân gian Nhật Bản, linh hồn khi rời bỏ thân xác sẽ có hình dạng của một quả cầu lửa màu xanh, trôi nổi trong không gian, lơ lững trong những nghĩa trang hoặc vất vưởng cận nhà của người quá cố trong vòng bốn mươi chín ngày sau khi mất.
_____________________
* Pháp Hoan dịch từ bản dịch tiếng Anh trong Thơ Từ Thế Nhật Bản, Viết Bởi Các Tăng Sĩ, Thi Nhân Trong Giờ Cận Tử (Japanese Death Poems, Written by Zen Monks and Haiku Poets on the Verge of Death).
* Ủng hộ Pháp Hoan: https://phaphoan.com/contact/