Đếm Quả Hạnh Đào – Paul Celan

PAUL CELAN (1920-1970) là nhà thơ, dịch giả người Ru-ma-ni, một trong những gương mặt thơ ca quan trọng nhất của văn học Đức nửa sau thế kỷ XX . Sinh ra trong một gia đình Do Thái nói tiếng Đức tại Czernowitz, Bucovina, trước đó là một tỉnh lỵ thuộc đế quốc Áo-Hung. Ông từng theo học y khoa tại Tours, rồi trở lại Czernowitz để học văn học và ngôn ngữ. Khi Ru-ma-ni bị Đức Quốc Xã chiếm đóng, ông cố gắng thuyết phục bố mẹ ông cùng ẩn nấp nhưng không thành (điều luôn làm ông ân hận mãi sau này). Bố mẹ ông sau đó bị bắt nhốt vào trại tập trung ở Transnistria Governorate trong khi ông vắng nhà (bố ông qua đời vì sốt phát ban còn mẹ ông bị bắn chết sau khi lao động kiệt sức). Cũng trong năm đó, Celan bị bắt làm tù nhân trong trại lao động cho đến năm 1944. Sau chiến tranh, ông làm việc như một dịch giả tại Bucarest trong hai năm. Năm 1947, Celan rời Ru-ma-ni đến Wien (Áo), tại đây ông làm quen và trở thành bạn với nữ thi sĩ Áo Ingeborg Bachmann. Cùng năm đó, ông rời Áo đến Paris và xuất bản tập thơ đầu tay Der Sand aus den Urnen. Năm 1952, Celan bắt đầu gây được tiếng vang trong chuyến lưu diễn thơ tại Đức, ông được mời đọc thơ trong những buổi họp mặt mỗi nửa năm của nhóm văn học huyền thoại, Nhóm 47 (Groupe 47). Tại Paris, Celan sống bằng công việc dịch thuật và dạy tiếng Đức tại École Normale Supérieure. Ông là bạn thân của nữ nhà thơ Đức gốc Do Thái Nelly Sachs (Nobel Văn chương, 1966). Ngày 20 tháng 4 năm 1970, ông nhảy xuống sông Seine tự vẫn. Cái chết của bố mẹ ông và những trải nghiệm trong trại tập trung là những chủ đề xuyên suốt trong thơ của Celan. Ông từng nói ‘’Không có thứ gì trên thế giới có thể làm cho một nhà thơ ngừng viết, cho dù y là một người Do Thái và ngôn ngữ trong thơ y là tiếng Đức’’. Ngoài sáng tác thơ, Celan còn là một dịch giả tài năng với nhiều tác phẩm được ông dịch từ tiếng Ru-ma-ni, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Nga, Anh và Hebrew ra tiếng Đức.

 
 
“Đếm quả hạnh đào”
 
Đếm quả hạnh đào,
đếm những gì từng mang vị đắng và khiến em thao thức
đếm anh cùng:
 
Anh kiếm tìm mắt em, khi con mắt mở ra và không kẻ nào nhìn thấy,
anh se sợi bí nhiệm đó
bên dưới giọt sương mà em mơ tưởng
trườn xuống những chiếc bình
được canh giữ bằng những chữ đã tìm thấy lối đi vào tim không một người nào cả.
 
Chỉ nơi đó em mới hoàn toàn bước vào danh tính của em,
bước vào chính em bằng những bước chân vững chãi,
những cây búa vung lên điên loạn trong tháp chuông thinh lặng của em,
những gì được nghe thấy chạm vào em,
những gì đã chết cũng đặt vòng tay quanh em
và cả ba đi xuyên qua buổi tối.
 
Gây cho anh vị đắng.
Đếm anh cùng những quả hạnh đào.
 
 
 
* Pháp Hoan dịch từ nguyên tác tiếng Đức Zähle die Mandeln, có tham khảo bản dịch Anh ngữ của Michael Hamburger.
 
 
 
Zähle die Mandeln
 
Zähle die Mandeln,
zähle, was bitter war und dich wachhielt,
zähl mich dazu:
 
Ich suchte dein Aug, als du’s aufschlugst und niemand dich ansah,
ich spann jenen heimlichen Faden,
an dem der Tau, den du dachtest,
hinunterglitt zu den Krügen,
die ein Spruch, der zu niemandes Herz fand, behütet.
 
Dort erst tratest du ganz in den Namen, der dein ist,
schrittest du sicheren Fußes zu dir,
schwangen die Hämmer frei im Glockenstuhl deines Schweigens,
stieß das Erlauschte zu dir,
legte das Tote den Arm auch um dich,
und ihr ginget selbdritt durch den Abend.
 
Mache mich bitter.
Zähle mich zu den Mandeln.

2 comments

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s