Hán Thi (199) Thạch Ốc Thanh Củng (石屋清珙) Cuốc cày cốt chỉ để sinh nhai, Củi nước quanh năm vốn đủ xài. Cảnh núi trập
Hán Thi (199) Thạch Ốc Thanh Củng (石屋清珙) Cuốc cày cốt chỉ để sinh nhai, Củi nước quanh năm vốn đủ xài. Cảnh núi trập
Hán Thi (197) Thạch Ốc Thanh Củng (石屋清珙) Trên vạn tầng cao của núi non, Nhà ta chẳng có chốn nào hơn. Đắp ba tượng
Hán Thi (197) Thạch Ốc Thanh Củng (石屋清珙) Mái tranh vừa lợp vẫn còn thơm, Mỗi năm thêm một lớp xanh rờn. Cửa giấy thâm
Hán Thi (196) Thạch Ốc Thanh Củng (石屋清珙) Miệng thường chúm chím vẻ hân hoan, Già đến cho nên phải sống nhàn. Trong tâm nào
Hán Thi (195) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Hàn Sơn chốn ấy có con sâu, Đầu đen mình lại trắng phau phau. Thường giữ trong tay
Hán Thi (194) Thạch Ốc Thanh Củng (石屋清珙) Đời người như ngựa chạy qua song, Mấy kẻ ghi tâm với tạc lòng. Hành sự nếu
Hán Thi (193) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Trên nhành hoa đậu chú hoàng oanh, Ngọt ngào thánh thót chuỗi âm thanh. Mỹ nhân mặt ngọc
Hán Thi (192) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Kìa chim ngũ sắc mới bay về, Trên nhánh ngô đồng ngậm hạt tre. Chuyển động nhịp nhàng
Hán Thi (191) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Trên đầu mây trắng nhẹ nhàng bay, Cần chi mua núi ở nơi này. Lối xuống gập ghềnh
Hán Thi (190) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Thiên Thai núi ấy vốn từ lâu, Có cây ngọc quý giữa rừng sâu. Muốn tìm tới đó
Hán Thi (189) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Trèo xuống từ trên đỉnh tót vời, Qua nghìn thước đá đứng chơi vơi. Một thân cây mọc
Một bài thơ của Thạch Ốc Thanh Củng (石屋清珙; 1272-1352), một vị cao tăng, thi sĩ sống vào thời nhà Nguyên. Tác giả này đến
Hán Thi (186) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Thiên Thai chốn ấy vốn nhà ta, Khói toả mây loà chẳng khách qua. Nghìn trượng vách cao
Hán Thi (186) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Người đời cười gọi: trẻ chăn trâu, Mặt mũi xanh xao thoáng vẻ sầu. Đai thắt quanh lưng
Hán Thi (183) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Tâm tư hào sảng mấy ai bằng, Thân thể sáng ngời vẻ kiện khang. Tên bắn xuyên qua
Hán Thi (182) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Con người trú ở cõi mù sa, Như kiến bò quanh miệng chén trà. Bò tới bò lui
Hán Thi (180) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Từ khi về đến chốn sơn lâm, Nghìn năm vạn kiếp đã xuôi dòng. Tuỳ vận ẩn trong
Hán Thi (179) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Lạc Dương có lắm gái kiêu sa, Ngày xuân khoe sắc giữa vườn hoa. Hái dăm ba đoá
Hán Thi (178) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Tâm tư phiền muộn mãi không thôi, Khóc than năm tháng đã qua rồi. Vất vả đêm ngày
Hán Thi (177) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Sâu tằm còn bé vào tháng ba, Nữ nhân tụ tập để ngắt hoa. Tựa người trêu bướm
Hán Thi (176) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Tuổi trẻ cớ chi lại buồn rầu, Buồn vì tóc bạc ở trên đầu. Tóc bạc cớ chi
Hán Thi (175) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Trên chú ngựa nòi rảo bước chân, Roi san hô chỉ Lạc Dương thành. Thiếu niên kiêu mạn
Hán Thi (174) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Đâu ai sống mãi ở trên đời, Sanh tử xưa giờ vẫn vậy thôi. Kìa người tám thước
Hán Thi (173) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Cư trú một mình dưới núi xanh, Sớm hôm mây trắng mãi xoay vần. Thiền thất mập mờ
Hán Thi (172) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Miệng ngậm khổ đào hạc trắng bay,Qua muôn nghìn dặm giữa trời mây.Muốn đến Bồng Lai tiên cảnh
Hán Thi (170) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Bên đông có mụ già gặp may, Trở nên giàu có mấy năm nay. Xưa kia mụ ấy
Hán Thi (168) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Chim anh vũ sống ở trời tây, Mắc lưới nên qua đến chốn này. Mỹ nhân sáng tối
Hán Thi (167) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Chiều nay phóng ngựa qua hoang thành, Hoang thành khiến khách động tâm tình. Luỹ cũ thấp cao
Hán Thi (165) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Kẻ tham tích của mãi không thôi, Nào khác gì con của cú hôi. Con lớn sẽ ăn
Hán Thi (163) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Hai mươi năm trước nhớ một lần, Thả bộ đi về chùa Quốc Thanh. Trong chùa Quốc Thanh
Tam Tự Thi Kỳ (V) Hán Thi (162) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Cư ngụ trong núi này, Chẳng có kẻ nào hay. Một mình giữa
Tam Tự Thi Kỳ (IV) Hán Thi (161)Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Gió núi luồn vào trong,Thổi tay áo phập phồng.Quạt không cần phe phẩy,Khí trời
Tam Tự Thi Kỳ (III) Hán Thi (159) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Đường lên chốn Hàn Sơn, Chẳng có ai lui tới. Nếu đến chốn
Tam Tự Thi Kỳ (II) Hán Thi (158) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Hàn Sơn thật sâu xa, Hợp với bản tâm ta. Khắp nơi toàn
Tam Tự Thi Kỳ (II) Hán Thi (156)Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Hàn Sơn lạnh lắm thay,Băng trên đá đóng dày.Tuyết một màn trắng xoá,Phủ lên
Hán Thi (154) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Trang Chu từng nói lúc lìa đời: ”Hãy lấy Đất Trời để liệm tôi.” Đến buổi ra đi
Hán Thi (153) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Phàm người muốn đọc Hàn Sơn thi, Kẻ ấy tâm tư phải hộ trì. Dứt bỏ xan tham
Hán Thi (152) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Dẫu anh có lái cánh buồm kia, Hay cưỡi trên lưng chú ngựa Kỳ. Cũng không đến được
Hán Thi (151) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Mây hồng tách biệt chốn lao xao, Xứ ấy không ai bước được vào. Bốn mùa mát mẻ
Hán Thi (149) Hanshan (寒山; Hàn Sơn) Tuấn kiệt trên lưng chú ngựa nòi, Về miền liễu biếc đã vung roi. Thuyền bè không dựng