TIẾNG HOẠ MI TRONG ĐÊM
(Thomas Hardy)
Tôi tựa vào cánh cổng trước rừng sâu
Khi sương giá như bóng ma màu xám,
Và cặn bã của mùa đông còn bám
Trong con mắt mòn mỏi những ngày qua.
Đám dây leo vươn tới bầu trời xa
Như sợi đàn vừa bung ra khỏi vỏ,
Những dáng người từng lang thang đây đó
Đã tìm về ngọn lửa giữa lò than.
Những đường nét của mặt đất rõ ràng
Như xác chết nằm vắt qua thế kỷ,
Và hầm mộ là tầng mây kỳ vĩ,
Và tiếng lòng là cơn gió thoảng đưa.
Và mạch nguồn của sự sống cổ xưa
Giờ héo khô trong xác thân rũ rượi,
Và toàn bộ linh hồn trên thế giới
Hoá nặng nề, chán nản giống như tôi.
Và tiếng hót đâu đó bỗng sinh sôi
Trên đầu tôi trong tán cành tăm tối
Ôi bài ca ngọt ngào không tả nổi
Của niềm vui chẳng cạn kiệt bao giờ;
Chú họa mi dẫu mệt mỏi bơ phờ,
Với bộ cánh đã tả tơi vì gió,
Vừa quyết định ném đi linh hồn nhỏ
Vào khoảng lặng u ám của màn đêm.
Lý do gì để tiếng hót cất lên
Với âm thanh ngọt ngào và lôi cuốn
Buổi ban đầu Chúa trời đã viết xuống
Trong huyết quản của mọi vật gần xa,
Khi đắm mình trong bóng tối bao la
Nghe hạnh phúc tuôn ra từ cổ họng
Chim đã được ban cho niềm Hy Vọng
Mà chính tôi chẳng biết đến bao giờ.
The Darkling Thrush
I leant upon a coppice gate
When Frost was specter-gray,
And Winter’s dregs made desolate
The weakening eye of the day.
The tangled bine-stems scored the sky
Like strings of broken lyres,
And all mankind that haunted nigh
Had sought their household fires.
The land’s sharp features seemed to be
The Century’s corpse outleant,
His crypt the cloudy canopy,
The wind his death-lament.
The ancient pulse of germ and birth
Was shrunken hard and dry,
And every spirit upon earth
Seemed fervorless as I.
At once a voice arose among
The bleak twigs overhead
In a full-hearted evensong
Of joy illimited;
An aged thrush, frail, gaunt, and small,
In blast-beruffled plume,
Had chosen thus to fling his soul
Upon the growing gloom.
So little cause for carolings
Of such ecstatic sound
Was written on terrestrial things
Afar or nigh around,
That I could think there trembled through
His happy good-night air
Some blessed Hope, whereof he knew
And I was unaware.
(December 31, 1900)
________________
* Pháp Hoan dịch từ nguyên tác tiếng Anh The Darkling Thrush của tiểu thuyết gia, nhà thơ người Anh Thomas Hardy.
Thomas Hardy viết bài thơ này vào đêm giao thừa cuối cùng của thế kỷ 19. Bài thơ diễn tả tâm trạng bi quan chán nản của tác giả trước thềm năm mới, và tiếng hót của chú chim hoạ mi già trong đêm là niềm an ủi duy nhất trước viễn cảnh tối tăm của thế kỷ sắp tới.
ThíchĐã thích bởi 1 người