10 bài Haiku (1761-1770) của Yosa Buson (Dữ Tạ Vu Thôn, 与謝 蕪村) Buổi tối tới rồi cùng hương hoa mận dưới chân ngọn
10 bài Haiku (1761-1770) của Yosa Buson (Dữ Tạ Vu Thôn, 与謝 蕪村) Buổi tối tới rồi cùng hương hoa mận dưới chân ngọn
2 bài Waka (328-329) – Ryokan Taigu (良寛大愚; Lương Khoan Đại Ngu) Đi vào ngôi làng này cốt để xem đào đỏ nhưng cả
5 bài Waka (323-327) – Vô Danh Cổ Kim Hoà Ca Tập (Kokin Wakashu; 古今和歌集) Như bờ cát xa xôi người nói: tình vô
13 bài Haiku (1748-1760) của Soen Nakagawa (中川 宋淵; Trung Xuyên Tống Uyên) Khi trở thành người tu bây giờ tôi mới biết cuộc đời
Viết dưới hoa anh đào khi hoàng tử Urin-in trở về cung sau khi viếng thăm xá lợi Phật tại núi Hiei. Waka (322)
Waka (321) – Vô Danh Ngửi thấy mùi hoa cam thoảng đưa trong làn gió khi chờ tháng Năm sang tôi nhớ về tay
Waka (320) Kamo no Chōmei (鴨 長明; Áp Trường Minh) Nhìn về phía xa xôi, với trái tim mỏi mệt, có phải chỉ vì
8 bài Haiku (1740-1747) của Yosa Buson (Dữ Tạ Vu Thôn, 与謝 蕪村) Trăng vàng vừa lên lũ cáo đùa giỡn trên đồng thuỷ
Haiku (1739) – Gozan (吾山; Ngô Sơn) Tuyết của ngày hôm qua như hoa đào lả tả nay thành dòng sông xa. 花と見し雪はきのふぞもとの水
9 bài Haiku (1730-1738) của Yosa Buson (Dữ Tạ Vu Thôn, 与謝 蕪村) Giữa miền quạnh hiu cây anh đào dại nở ra mĩ
Kanshi (51) Trốn Chạy Chiến Tranh từ Mika-no-Hara đến Nara Rõ rành dưới mỗi bước chân ta, Khấp khểnh lối đi giữa sơn hà,
Kanshi (50) – Ikkyu Sojun (一休宗純, Nhất Hưu Tông Thuần) Am vắng chẳng có khách tới thăm, Bên đèn văng vẳng tiếng thơ ngâm;
Tình Chôn Kín Ôi Mối Tình chán chường và mệt mỏi Em sẽ chôn bên dưới một thân cây, Trong khu rừng cao thâm
Kanshi (48) – Tích Môn Năm xưa khi Phật nhập Niết Bàn Thiên nhiên trở lại cõi trần gian: Một thanh kiếm sắc vung
10 bài Haiku (1720-1729) của Yosa Buson (Dữ Tạ Vu Thôn, 与謝 蕪村) Đi xuống ngọn đồi hoa anh đào đổ lên người của
11 bài Haiku (1709-1719) của Yosa Buson (Dữ Tạ Vu Thôn, 与謝 蕪村) Những cánh hoa mơ mang màu đất đỏ của miền cố
10 bài Haiku (1699-1708) của Yosa Buson (Dữ Tạ Vu Thôn, 与謝 蕪村) Dẫu gió lặng rồi anh đào kia vẫn rơi hoài không
18 bài Haiku (1681-1698) của Yosa Buson (Dữ Tạ Vu Thôn, 与謝 蕪村) Trên đồng cỏ hoang trong đêm tĩnh mịch tiếng trùng ca
11 bài Haiku (1670-1680) của Yosa Buson (Dữ Tạ Vu Thôn, 与謝 蕪村). Trong ngọn gió mùa xuân mùi hương từ chiếc nón ở
10 bài Haiku (1659-1668) của Yosa Buson (Dữ Tạ Vu Thôn, 与謝 蕪村). Hoa đào đơm bông một con chó sủa người bán hàng
8 bài Haiku (1651-1658) của Yosa Buson (Dữ Tạ Vu Thôn, 与謝 蕪村). Hái quả mận bên đường đôi bàn tay già cỗi lần
10 bài Haiku (1641-1650) của Kobayashi Issa ( 小林一茶, Tiểu Lâm Nhất Trà). Ôi đẹp làm sao những cây nấm độc mọc bên bờ
Bài Ca Của Nàng Công Chúa Nàng công chúa có vô số nhân tình, Những hiệp sĩ đứng đêm ngày trước cổng, Những lời
Tháng Năm Gió khẽ lay những đoá tử đinh hương Và lá mới cười lên trong ánh nắng, Những cánh hoa rơi trên bức
Vậy là đã hoàn thành 2000 bản dịch vào ngày hôm nay, đúng vào Lễ Tạ Ơn, với 1640 bài Haiku, 319 bài Waka và
15 bài Haiku (1612-1626) của Kobayashi Issa ( 小林一茶, Tiểu Lâm Nhất Trà). Sương mai xuống đầy sau phòng trọ lớn một cây thông
Haiku (1611) – Yosa Buson (Dữ Tạ Vu Thôn, 与謝 蕪村) Hoa sen trắng ngần nhà sư quyết định cắt đi một cành.
3 bài Haiku (1608-1610) của Shiba Sonome (1664–1726, 斯波 園女; Tư Ba Viên Nữ) ________________ Bên kia tấm màn hoa mận phương bắc nở
9 bài Haiku (1599-1607) của Chigetsu-ni (智月尼; Trí Nguyệt Ni) Tiếng kêu chim chích bông tôi đặt bát đĩa xuống ở bên trong chậu
8 bài Haiku (1591-1598) của nữ nhà thơ Haiku Nhật Bản Sue Jo. Trên nhành liễu xanh tiếng chim thánh thót trăm nghìn âm
7 bài Haiku (1584-1590) – Arii Shokyu-Ni (有井諸九尼; Hửu Tỉnh Gia Cửu Ni) Trên nhánh cây khô gầy hạt mưa vừa rơi xuống lộc
Chương 18 – Tĩnh Lặng: Trầm Mặc (Haiku Mind, 108 Poems to Cultivate Awareness & Open Your Heart) Không lấy một âm thanh cả
Haiku (1583) – Ryota Oshima (大島 僚太; Đại Kê Liêu Thái) Tuyết rơi hoài trong đêm tôi thấy hơi gió nhẹ vừa thoảng qua
Haiku (1582) Akutagawa Ryūnosuke (芥川 龍之介, Giới Xuyên Long Chi Giới) Gió đông thổi liên hồi cá mòi khô còn giữ sắc màu của
Haiku (1581) – Sandra Simpson Vầng trăng đi hoang tối nay tìm thấy giữa bông cúc vàng. Finding the moon right in the
Haiku (1580) Ryota Oshima (大島 僚太; Đại Kê Liêu Thái). Không lấy một âm thanh cả chủ nhân và khách cùng đoá cúc trắng
8 bài Haiku (1572-1579) của Phúc Điền Thiên Đại Ni (Fukuda Chiyo-ni, 福田千代尼). Dẫu đã vỡ rồi búp bê kia vẫn giữ nguyên nụ cười.
Ở Nhật Bản cũng như nhiều nơi khác, người ta tin rằng ngôn ngữ có linh hồn hoặc năng lực tâm linh. Thơ Tanka (短歌
14 bài Haiku (1557-1570) của thiền sư Kobayashi Issa (小林一茶, Tiểu Lâm Nhất Trà). Tiếng chim bách thanh như thể xuyên thủng cả mái
7 bài Haiku (1550-1556) của Phúc Điền Thiên Đại Ni (Fukuda Chiyo-ni, 福田千代尼). Tịch nhan đơm hoa khi nàng để lộ làn da trắng